Câu chuyện của ngư dân Quảng Bình
Một tháng, các ngư dân chuyên đánh bắt xa bờ ở vùng biển Vịnh Bắc bộ thường có đến 20 ngày lênh đênh trên biển. Họ dường như quen thuộc với cuộc sống sinh hoạt trên tàu, trong đó có cả những bữa cơm không theo giờ giấc. Người dân đi biển luôn tâm niệm ” Thuyền là nhà biển là Quê hương”.

Công Việc Nấu ăn
Công việc nấu những bữa cơm trên chuyến tàu biển rất khác biệt. Bởi Không giống như nấu ăn thông thường ở nhà. Biển lúc nào cũng có sóng làm cho thuyền dao động 1m đến 2 m. Nên công việc nấu ăn không hề dễ dàng. Nhiều lúc sóng to quá không nấu được cơm, các thủy thủ phải ăn mỳ tôm.

Thưởng thức hải sản tươi sống
Đổi lại dân biển lúc nào cũng được thưởng thức những món hải sản tươi ngon. Cá vừa câu được cho vào nồi chế biến luôn. Không còn gì khoái khẩu bằng ăn hải sản mà lúc nó còn tươi sống.
Ngư dân vùng biển giờ ăn cũng linh hoạt, không cụ thể giờ nào cả, xong việc lúc nào thì ăn lúc ấy. Vì vậy những bữa cơm diễn ra vào lúc 3h sáng là chuyện bình thường trên tàu.
Ngư dân chủ yếu đánh bắt hải sản về đêm, chuyện thức trắng đêm là chuyện thường tình của các thủy thủ.
Bởi vì nhịp sinh học thay đổi ngủ ngày đêm lại thức trắng. có lúc mỗi ngày chỉ chợp mắt 2 đến 3 giờ đồng hồ. nên dân biển trong có vẽ già trước tuổi.
Phương tiện hỗ trợ ngư dân
Trên biển mênh mông sóng nước, chiếc máy bộ đàm là một trong những phương tiện đắc lực nhất của ngư dân. Không chỉ kịp thời thông tin với nhau khi gặp khó khăn hoạn nạn hoặc rủi ro trên biển để tàu bạn đến cứu giúp mà còn là phương tiện thông tin cho nhau về ngư trường đánh bắt.
Nếu ở ngư trường mà tàu nào đó đang thả neo nguồn hải sản ít hoặc không có thì sử dụng bộ đàm để nhờ trợ giúp, các tàu khác sẵn sàng cung cấp vị trí ngư trường có nguồn hải sản nhiều hơn. Nhờ vậy mà sau mỗi chuyến ra khơi hầu như không có tàu nào bị “tay trắng”.
Trước đây, ông cha ta đi đánh bắt hải sản chỉ biết nhìn sao để định vị ngư trường nhưng thật ra là may rủi, được chăng hay chớ; nhiều khi thuyền bị nạn trên biển không ai cứu giúp. Còn ngày nay, không chỉ trang bị bộ đàm, mỗi tàu còn trang bị máy định vị, máy tầm ngư và các thiết bị cần thiết khác.
Kết nối cộng đồng ngư dân
Đặc biệt, sự gắn kết trong cộng đồng ngày càng được phát huy nên mọi người rất yên tâm đánh bắt. Ngoài ra, máy bộ đàm cũng là phương tiện để mọi người giao lưu văn nghệ sau mỗi chuyến ra khơi. Các anh hát cho nhau nghe có thể là những bài tân nhạc hoặc tân cổ giao duyên tập trung vào chủ đề biển, tình yêu quê hương, đất nước.
Nhưng bài hát ấn tượng nhất mà tôi còn nhớ là:” chuyện tình hoa muống biển, Thuyển và biển và đặc biệt đó là bài “Gần lắm Trường Sa” của tác giả Huỳnh Phước Long.
“…Thương nhớ sao vơi người chiến sĩ Trường Sa ơi
Không xa đâu Trường Sa ơi/ Không xa đâu Trường Sa ơi
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em…”.
hay những lời trong bài hát ” thuyền và biển “
” Chỉ có thuyền mới hiểu biển mênh mông nhường nào
chỉ có biển mới biết thuyền đi đâu về đâu…”
Chỉ khi lênh đênh trên biển nghe câu đó thấm thía vô cùng và hoàn toàn đúng như vậy.
Tương lại nghề Biển
Nghề biển trong những năm gần đây thật sự phát triển, có không ít người đã mạnh dạn đầu tư đóng tàu mới có công suất lớn hơn hoặc đóng tàu vỏ thép. Đồng thời đầu tư mua sắm ngư lưới cụ, máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu vươn khơi bám biển, đánh bắt hải sản có chất lượng, thu nhập cao.
Đặc biệt, đánh bắt trên biển bây giờ độ an toàn rất cao, không còn chuyện “Lấy chồng nghề ruộng em theo/ Lấy chồng nghề biển hồn treo cột buồm”.
Comments